Chương 9: Kinh tế (Phần 1) 


Mục lục

Lời dẫn

1. Các quốc gia phát triển phương Tây đang thực hành chủ nghĩa cộng sản dưới một danh nghĩa khác
1.1 Thu thuế cao và phúc lợi cao
(1) Chủ nghĩa xã hội biến tướng
(2) Thu thuế cao
(3) Phúc lợi cao
(4) Phúc lợi cao làm băng hoại đạo đức xã hội, gia tăng mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo
(5) Chế độ phúc lợi tạo nên “văn hóa đói nghèo”
(6) Phe cánh tả sử dụng chính sách phúc lợi để biến dân chúng thành kho phiếu bầu
1.2 Các quốc gia phương Tây tích cực can thiệp vào lĩnh vực kinh tế
(1) Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
(2) Hệ quả và thực chất của việc chính phủ can thiệp vào nền kinh tế
1.3 Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ dẫn đến chủ nghĩa độc tài cộng sản

2. Mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa quái thai của Đảng Cộng sản Trung Quốc
2.1 ĐCSTQ không hề buông lỏng sự khống chế đối với nền kinh tế
2.2 Sự thực đằng sau sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc
2.3 Hậu quả của mô hình kinh tế Trung Quốc

3. Chủ nghĩa xã hội đưa các quốc gia đang phát triển đi vào ngõ cụt
3.1 Bóng ma chủ nghĩa xã hội vẫn đang ám các quốc gia cộng sản Đông Âu cũ
3.2 Sự thất bại của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở các nước đang phát triển

Tài liệu tham khảo

****

Lời dẫn

Cách đây 150 năm, Karl Marx đã xuất bản cuốn “Tư bản luận” (Das Kapital) hô hào dùng chế độ công hữu để xóa bỏ chế độ tư hữu. Nửa thế kỷ sau, làn sóng công hữu của chủ nghĩa cộng sản đã lan rộng đến 1/3 các nước trên thế giới. 

Sau năm 1990, sau khi khối Xô-viết bị giải thể, rất nhiều quốc gia Đông Âu đành phải thực hiện “liệu pháp cú sốc” để quay trở lại nền kinh tế thị trường. Một số quốc gia – vốn không phải do đảng cộng sản cầm quyền nhưng lại tôn thờ chủ nghĩa xã hội – đã tiến hành quốc hữu hóa tài sản quốc gia; quá trình thực hiện chế độ công hữu và kinh tế kế hoạch đã mang đến đói nghèo và thống khổ cho các quốc gia này, họ cũng đành phải bắt đầu thực hiện kinh tế thị trường tự do một phần. 

Tà linh cộng sản xâm lấn toàn cầu với mục đích thống trị thế giới. Những quốc gia này lần lượt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản hoặc mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa, đây chẳng phải là minh chứng cho sự thất bại của tà linh cộng sản hay sao? Sự thực không đơn giản như vậy. Một trong những đặc điểm của tà linh cộng sản là để đạt được mục tiêu cuối cùng của mình, nó không hề có nguyên tắc nào mà biến hóa khôn lường; “nguyên tắc” của nó biến đổi theo ý muốn của nó, phủ nhận hoặc chỉ trích một số thủ đoạn của bản thân nó cũng là thủ đoạn để nó đạt được mục tiêu lớn hơn. Trong lĩnh vực kinh tế, nó cũng sử dụng thủ đoạn này. 

Phân tích cụ thể hệ thống kinh tế thế giới hiện nay và thực chất đằng sau nó, chúng ta không thể không kinh ngạc khi phát hiện rằng móng vuốt ma quỷ của tà linh cộng sản sớm đã vươn tới từng ngóc ngách của lĩnh vực kinh tế. Trong các viễn cảnh tươi đẹp, trong sự sùng bái mù quáng vào chính phủ, nền kinh tế của hầu hết các quốc gia đang từng bước xa rời nguyên tắc của nền kinh tế tự do, mất đi đạo đức căn bản và rơi vào vòng khống chế của tà linh cộng sản. Do vậy, nhận rõ bộ mặt chân thực của nó để suy nghĩ và tìm ra đối sách là việc vô cùng cấp thiết. 

1. Các quốc gia phát triển phương Tây đang thực hành chủ nghĩa cộng sản dưới một danh nghĩa khác

Marx đã nói trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”: “Những người theo đảng cộng sản có thể khái quát lý luận của mình chỉ trong một câu: Tiêu diệt chế độ tư hữu”. Đối với con người mà nói, cần phải “tiêu diệt cá tính, tính độc lập và tự do của người tư sản”. Đối với xã hội mà nói thì tức là “giai cấp vô sản lợi dụng chế độ chính trị của bản thân nó để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản của giai cấp tư sản, tập trung toàn bộ công cụ sản xuất vào tay quốc gia, tức là nằm trong tay giai cấp thống trị là giai cấp vô sản”. [1]

Để đạt được mục tiêu này, người cộng sản đã dùng biện pháp giết chóc và bạo lực ở những quốc gia cộng sản. Tuy nhiên, ở những xã hội tự do thì bạo lực của chủ nghĩa cộng sản lại không có nhiều môi trường để phát huy; vì vậy, tà linh cộng sản đã sử dụng phương thức phi bạo lực, dùng các hình thức chủ nghĩa xã hội biến tướng, chia thành các giai đoạn khác nhau và các mức độ khác nhau để thẩm thấu vào toàn xã hội, từ bề ngoài, chúng ta khó mà phân biệt được.

Rất nhiều chính sách kinh tế của các quốc gia phương Tây hiện nay có vẻ như không liên quan gì đến chủ nghĩa xã hội, cả về tên gọi lẫn hình thức, nhưng đều có tác dụng hạn chế, làm suy yếu, thậm chí tước đoạt quyền tư hữu, làm suy yếu cơ chế doanh nghiệp tự do, khuếch trương quyền lực của chính phủ, tiếp cận tới chủ nghĩa xã hội. Thủ đoạn của nó là thu thuế cao, phúc lợi cao và nhà nước tích cực can thiệp vào nền kinh tế một cách toàn diện. 

1.1 Thu thuế cao và phúc lợi cao

Một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia phương Tây là chế độ phúc lợi cao. Các quốc gia phát triển phương Tây thực thi chính sách phúc lợi cao khiến người đến từ các quốc gia cộng sản cảm thấy rất giống với chủ nghĩa cộng sản. 

(1) Chủ nghĩa xã hội biến tướng 

Bản thân chính phủ không tạo ra giá trị, mà giống như xén lông cừu để làm len vậy. Nguồn tiền để thực hiện phúc lợi cao đều lấy từ các khoản thuế hoặc các khoản nợ của quốc gia, rốt cuộc đều do người dân phải trả. Phúc lợi cao chính là hình thức biến tướng của chủ nghĩa xã hội, chỉ có điều xã hội phương Tây không diễn ra cách mạng bạo lực của đảng cộng sản mà thôi. 

Thu thuế cao đồng nghĩa với việc cưỡng chế chuyển giao một lượng lớn tài sản của tư nhân vào tay nhà nước, để nhà nước thống nhất tiến hành hoạt động kinh tế và phân phối lại tài sản – thực chất nó là hình thức biến tướng – dần dần tiến đến xóa bỏ tài sản tư hữu. 

Chính sách thu thuế cao so với chế độ công hữu và chủ nghĩa bình quân của chính quyền cộng sản đều có cùng một mục đích, điểm khác biệt duy nhất là việc nhà nước chiếm hữu tài sản xảy ra trước hay sau quá trình sản xuất mà thôi. Trong chế độ công hữu của chính quyền cộng sản, tư liệu sản xuất là do nhà nước trực tiếp nắm giữ. Còn trong chính sách thu thuế cao ở các quốc gia phương Tây, tư liệu sản xuất là do cá nhân nắm giữ, nhưng tài sản làm ra lại bị nhà nước chiếm hữu thông qua hình thức thu thuế cao, sau đó được phân phối lại trở thành tài sản công cộng. Hai hình thức này kỳ thực đều tương đương với tước đoạt tài sản của người khác, chỉ có điều cách làm của nhà nước phương Tây không giết chóc và bạo lực như nhà nước cộng sản, mà được tiến hành một cách “hợp pháp” thông qua bầu cử và pháp luật. 

Sự trợ giúp của chính phủ, nhất là vấn đề an ninh xã hội trong những sự cố ngoài ý muốn hay thiên tai là hoàn toàn hợp lý. Chính vì chế độ phúc lợi có mặt tích cực nên nó mới có khả năng mê hoặc người ta, tạo cái cớ để tà linh cộng sản lợi dụng, không ngừng thúc đẩy chính sách thu thuế cao và phúc lợi cao. Về mặt này, phúc lợi cao đã đạt được mục đích phá hoại con người, xã hội và đạo đức tương tự như nền kinh tế chủ nghĩa cộng sản. Bản thân nền kinh tế chủ nghĩa cộng sản tự nhiên có tính hủy hoại nhân tính, dựa trên việc con người phải đấu tranh sinh tồn về khía cạnh kinh tế, từ đó kích thích mặt ác của con người, làm bại hoại đạo đức con người. Đây chính là nguyên nhân căn bản khiến tà linh luôn tìm cách thúc đẩy các quan điểm kinh tế của chủ nghĩa cộng sản phát triển ra toàn thế giới, bao gồm cả các nước theo chính quyền cộng sản và các xã hội tự do. 

(2) Thu thuế cao 

Chế độ phúc lợi cao của các quốc gia phát triển ở phương Tây đòi hỏi một nguồn tài chính lớn. Nếu không có chính sách thu thuế cao, tức là không có sự chuyển dịch một lượng lớn tài sản tư hữu sang công hữu thông qua việc nộp thuế hoặc các khoản nợ chính phủ, thì chính sách phúc lợi cao sẽ không thể thực hiện được. 

Ví dụ ở Mỹ, quá nửa nguồn thu từ thuế là dành cho phúc lợi xã hội và y tế. Hơn 80% nguồn thuế là từ thuế thu nhập cá nhân và phí bảo hiểm xã hội, còn 11% đến từ thuế thu nhập doanh nghiệp. [2] So với Mỹ thì chế độ phúc lợi xã hội ở nhiều quốc gia phương Tây còn cao hơn nhiều, tất nhiên cũng đòi hỏi mức thuế cao hơn nữa. 

Theo số liệu thống kê năm 2016 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế quốc tế (OECD), có 27 quốc gia có thuế suất thuế thu nhập cá nhân hơn 30%. Hai nước có thuế suất cao nhất – ở mức 54% và 49,4% – đều ở các nước châu Âu. Đồng thời, khi ăn uống và mua sắm ở châu Âu, người tiêu dùng còn phải chịu thuế giá trị gia tăng, lên đến 20% ở một số quốc gia. [3] Nếu tính thêm thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác thì tổng mức thuế còn cao hơn nữa. 

Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng, khoảng những năm 1900, mức thuế thu nhập cá nhân ở nhóm 20 quốc gia đều rất thấp. Chẳng hạn, năm 1900, mức thuế cao nhất là 10%, còn Nhật Bản và New Zealand là 5%. Đến 1950, mức thuế bìnn quân cao nhất của 20 quốc gia này đã vượt quá 60%, sau đó hạ dần xuống, đến nay còn khoảng 40%. [4]

Chính sách thu thuế cao không chỉ tạo gánh nặng cho người giàu, mà còn trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến người nghèo. Người giàu thường có thể thông qua thương mại và các biện pháp khác để hợp thức hóa việc trốn thuế, nhưng người nghèo lại có nguy cơ mất đi một số phúc lợi xã hội khi thu nhập đạt đến một ngưỡng nhất định. Như vậy, càng làm việc nhiều, thu nhập càng cao thì phải nộp thuế càng nhiều, mà phúc lợi nhận được lại càng ít đi.

(3) Phúc lợi cao 

Năm 1942, nhà kinh tế học người Anh William Beveridge đã đề xuất chủ trương xây dựng nhà nước “phúc lợi”, một kế hoạch “bao trọn các mặt về con người và nhu cầu”. Chế độ phúc lợi cao của xã hội hiện đại đã mở rộng để chi trả cả lương thất nghiệp, phí y tế, hưu trí, tai nạn lao động, nhà ở, giáo dục, chăm sóc trẻ em, v.v.., vượt xa khái niệm truyền thống về làm từ thiện cho những người cần giúp đỡ khẩn cấp nhằm giải quyết những vấn đề khó khăn tạm thời. 

Một báo cáo của Quỹ Di sản Mỹ cho thấy năm 2013, hơn 100 triệu người Mỹ (chiếm 1/3 dân số) được nhận phúc lợi xã hội (ngoài bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế), bình quân là 9.000 đô la Mỹ mỗi người. [5] Theo số liệu do Cục Thống kê Mỹ công bố, năm 2016, số người sống dưới mức nghèo đói chiếm 12,7% dân số Mỹ. Tuy nhiên, điều kiện sinh hoạt của họ có thể còn khiến nhiều người phải kinh ngạc hơn nữa.

Theo điều tra của chính phủ, trong những hộ nghèo này, 96% cha mẹ cho biết con cái của họ chưa từng bị đói; 49,5% số hộ nghèo sống ở nhà riêng, 40% sống trong những căn nhà phố bán liền kề, chỉ có 9% phải ở nhà lưu động; 80% có điều hòa; 40% có tivi tinh thể lỏng; 3/4 hộ nghèo có xe riêng. [6] Việc phân loại đông đảo người vào diện nghèo là cái cớ để chính phủ mở rộng phúc lợi xã hội. 

Trong các nước thành viên của OECD, Mỹ là nước có chính sách phúc lợi thấp hơn mức trung bình. Phần lớn người dân ở các nước Bắc Âu và Tây Âu được hưởng chính sách phúc lợi cao hơn nhiều so với dân Mỹ. Ví dụ, chế độ “an sinh trọn đời” của ở Đan Mạch đảm bảo chăm sóc y tế miễn phí, giáo dục đại học miễn phí và các khoản phúc lợi lớn khác; ngay cả những công dân giàu có nhất cũng được hưởng phúc lợi.

Trước khi Hy Lạp xảy ra khủng hoảng kinh tế, người Hy Lạp cũng được hưởng phúc lợi cao, mỗi năm được lĩnh 14 tháng lương, 61 tuổi đã được nghỉ hưu, lương hưu lên đến hơn 90% mức lương khi còn công tác; người Thụy Điển có thể nghỉ ốm lâu nhất 550 ngày liên tục v.v. 

Việc biến chế độ phúc lợi từ hình thức hỗ trợ khẩn cấp, tạm thời cho người cơ nhỡ theo quan niệm truyền thống thành phúc lợi thường kỳ cho toàn dân, kỳ thực đây là thủ đoạn mà tà linh dùng để tiến dần đến thực hiện nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa. 

(4) Phúc lợi cao làm băng hoại đạo đức xã hội, gia tăng mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo 

Nhìn từ góc độ kinh tế, bản chất của chính sách phúc lợi quốc gia là lấy tiền của một số người, chuyển thành giá trị cho người khác chi tiêu. Nhưng việc chính phủ đóng vai trò trung gian trong việc phân phối lại tài sản khiến cho những người hưởng phúc lợi ngày càng coi nhẹ giá trị đạo đức, trở thành những người “không làm mà hưởng”. Về phương diện này, chế độ phúc lợi cao đã gây nên sự băng hoại đạo đức rõ rệt ở các nước Bắc Âu. 

Nhà xã hội học người Thụy Điển Nima Sanandaji đã chỉ ra vấn đề này qua những số liệu của cuộc “Điều tra về Giá trị quan của Thế giới”. Vào đầu những năm 1980, có 82% người Thụy Điển và 80% người Na Uy đồng ý rằng: “Nhận phúc lợi từ chính phủ khi không đáng nhận là điều sai trái”. Nhưng cuộc điều tra của Na Uy năm 2005 và của Thụy Điển năm 2008 lại cho thấy chỉ có 56% người Na Uy và 61% người Thụy Điển đồng ý với nhận định này. [7] 

Dưới ảnh hưởng của chính sách phúc lợi xã hội cao, người chịu thương chịu khó nhận được ít thành quả hơn so với nỗ lực bỏ ra, còn người không phải bỏ ra nhiều nỗ lực lại được thụ hưởng nhiều hơn. Theo thời gian, quan niệm đạo đức của con người đã trở nên biến dị một cách vô thức. Sau mấy thế hệ người trưởng thành trong chế độ phúc lợi, rất nhiều người đã dần dần mất đi tinh thần cầu tiến, đức tính độc lập, có trách nhiệm, cần cù của ông cha. Họ coi việc thụ hưởng phúc lợi thành một loại quyền lợi, thậm chí một loại “nhân quyền”. Họ đã dưỡng thành thói quen lệ thuộc vào chính phủ, thậm chí còn đòi hỏi ngược lại chính phủ để được trợ cấp liên tục.

Đây chính là thủ đoạn nước ấm nấu ếch (Nước ấm nấu ếch là câu chuyện ngụ ngôn của Trung Quốc. Khi thả con ếch thẳng vào nồi nước nóng, nó sẽ lập tức nhảy ra. Nhưng nếu thả vào nồi nước lạnh rồi từ từ đun nóng, con ếch sẽ chết từ từ mà không hay biết). Ma quỷ lợi dụng chính sách phúc lợi cao để dần làm băng hoại nhận thức về đạo đức của xã hội. 

Không chỉ vậy, chế độ phúc lợi cao lấy mất vai trò của các hội từ thiện truyền thống, tước mất cơ hội làm việc thiện của người làm từ thiện truyền thống cũng như cơ hội nuôi dưỡng lòng biết ơn của người nhận từ thiện. 

Phương thức giúp đỡ người nghèo trong xã hội truyền thống là do cá nhân tự quyết định: cá nhân mỗi người xuất phát từ sự cảm thương mà trực tiếp hỗ trợ người cần sự giúp đỡ, hoặc cá nhân quyên góp cho các tổ chức từ thiện (như giáo hội) để các tổ chức từ thiện cứu trợ người cơ nhỡ. Trong tình huống này, đều có thể biết cụ thể người cho tặng và người nhận. Người nhận vốn dĩ không có quyền yêu cầu người khác cứu trợ mình, nhưng khi nhận được giúp đỡ, họ sẽ mang lòng biết ơn đối với người cho tặng mình. Lòng biết ơn này có thể khiến họ sau này nỗ lực thay đổi hoàn cảnh, bởi vì đó là tâm nguyện của người quyên tặng; cũng có thể sau này, khi cuộc sống tốt lên, họ sẽ quay lại làm việc thiện để giúp đỡ xã hội, họ cũng sẽ trở thành người cho tặng hoặc sẽ dùng cách nào đó để báo đáp người đã cho tặng mình. 

Alexis de Tocqueville, nhà tư tưởng người Pháp, đã quan sát thấy rằng trong hành động đạo đức truyền thống, tức là hành động làm từ thiện của cá nhân, sự cho đi và lòng biết ơn trong xã hội có tính bổ trợ cho nhau, có tác dụng tích cực nâng cao đạo đức của toàn xã hội. Mối quan hệ tình cảm hai chiều này đồng thời cũng có thể hóa giải mâu thuẫn và sự đối lập giữa người giàu và người nghèo, bởi vì việc làm từ thiện của cá nhân giúp liên kết hai giai tầng xã hội thông qua tình cảm và lợi ích. [8]

Chế độ phúc lợi cao ngày nay đã cắt đứt mối liên hệ giữa người cho tặng và người nhận. Một mặt, người cho tặng bị cưỡng ép phải nộp thuế mà không xuất phát từ thiện tâm muốn cho tặng, trên thực tế họ bị cưỡng đoạt quyền được bố thí, hành thiện; mặt khác, người nhận không biết ai là người cho tặng (bản thân chế độ phúc lợi quốc gia không phải là người cho tặng thực sự, người cho tặng thực sự là người nộp thuế), do vậy họ cũng không có lòng biết ơn. 

Ngoài ra, Tocqueville còn chỉ ra rằng chế độ phúc lợi làm gia tăng mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo. Người giàu bị cưỡng chế giao nộp một phần tài sản, nhưng lại không thể được gặp trực tiếp người được cứu trợ mà đồng cảm với họ. Ngược lại, họ chỉ cảm thấy oán hận, khinh miệt người nhận phúc lợi thuôc giai tầng đói nghèo, coi những người này là “những kẻ xa lạ tham lam”. Đồng thời, trong tâm người nghèo cũng sẽ nảy sinh sự bất mãn, bởi vì sự cứu trợ về vật chất được coi là việc đương nhiên, nhưng lại không thể giúp người ta no đủ. “Một giai cấp vẫn nhìn thế giới bằng con mắt lo sợ và khinh bỉ, còn giai cấp kia lại nhìn những bất hạnh của bản thân bằng con mắt thất vọng và đố kỵ”. [9] 

Bằng việc kích động lòng đố kỵ và đấu tranh, chế độ phúc lợi cao chính là một trong những thủ đoạn của tà linh để làm xói mòn đạo đức con người và sự hài hòa của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện vô cùng rõ rệt khi cuộc khủng hoảng kinh tế Hy Lạp xảy ra – tuy vậy đó không phải là mâu thuẫn giữa kẻ giàu và người nghèo, mà là mâu thuẫn giữa tầng lớp trung lưu và thượng lưu. Ở Hy Lạp, người giàu không muốn đóng thuế cao, trốn thuế đã trở thành “môn thể thao toàn dân” như cách gọi của giới quan chức Hy Lạp do Thời báo “The Economist” trích dẫn. [10] Chính phủ Hy Lạp vì không muốn làm mất lòng cử tri nên suốt một thời gian dài đã phát hành trái phiếu, dựa vào vay vốn để bù đắp cho thâm hụt ngân sách do thất thu thuế và duy trì mức phúc lợi cao ngang bằng với các nước thành viên khác trong Liên minh Châu Âu.

Sau khi khủng hoảng xảy ra, khi chính phủ cần phải giảm phúc lợi thì một làn sóng bất mãn của đông đảo người dân vốn đã quen được nuông chiều bằng phúc lợi cao bùng phát trên quy mô lớn, dân chúng chĩa mũi nhọn vào những người giàu, yêu cầu phải thu thuế cao hơn từ những người giàu. Rốt cuộc, tầng lớp giàu có hay tầng lớp trung lưu phải chịu trách nhiệm cho cuộc khủng hoảng kinh tế này? Đây là một vấn đề khiến chính phủ phải đau đầu. Nhưng cho dù thế nào, tà linh đã đạt được mục đích của nó là phá hoại đạo đức con người và xúi giục những nhóm người trở nên thù hận, đấu tranh lẫn nhau.

Chế độ phúc lợi thúc đẩy quan niệm “không làm mà hưởng”, làm xói mòn đạo đức lao động truyền thống. Điều đó làm suy giảm tinh thần nỗ lực lao động và tích cực phấn đấu của xã hội, từ đó khiến nền kinh tế bị tổn thương. 

Năm 2010, ba nhà kinh tế học gồm Martin Halla, Mario Lackner và Friedrich G. Schneider đã tiến hành phân tích những tác động thực tế của chế độ phúc lợi xã hội và đưa ra số liệu chứng minh chế độ phúc lợi chắc chắn sẽ làm suy yếu động lực phát triển của xã hội, mà tác động này phải sau một thời gian rất lâu dài mới có thể thực sự biểu hiện ra. Họ kết luận rằng chế độ phúc lợi xã hội sẽ phá hủy đi nền tảng kinh tế của chính quốc gia đó. [11] 

(5) Chế độ phúc lợi tạo nên “văn hóa đói nghèo” 

Năm 2012, Thời báo New York (The New York Times) đã đăng bài báo với tiêu đề “Kiếm tiên bằng sự mù chữ của trẻ nhỏ” kể một câu truyện đau xót mà chế độ phúc lợi gây ra cho những gia đình thu nhập thấp ở vùng núi Appalachia ở miền Đông nước Mỹ.

Bài báo kể về những gia đình nghèo không cho con cái đi học để đạt điều kiện hưởng trợ cấp.

Bài báo viết: “Nhiều bậc phụ huynh lo sợ nếu con cái của học học đọc thì họ sẽ không còn đủ điều kiện để nhận trợ cấp mù chữ hàng tháng.”

“Nhiều người sống trong những căn nhà lưu động trên sườn núi ở đây là người nghèo, không nơi nương tựa, nhận được khoản trợ cấp 698 đô la Mỹ mỗi tháng từ Chương trình Phụ cấp An sinh cho đến khi đứa trẻ được 18 tuổi. [12]

Chương trình này ra đời khoảng 40 năm trước với mục đích hỗ trợ những gia đình có trẻ em khiếm khuyết về trí tuệ hoặc sinh lý. Tuy nhiên, theo Thời báo New York Times, hiện nay, hơn 55% số “trẻ em khuyết tật” được nhận trợ cấp được liệt vào diện “chậm phát triển trí tuệ” nhưng không có điều kiện cụ thể nào để xác định. Cả nước Mỹ có 1,2 triệu trẻ em như vậy và cần 9 tỷ đô la Mỹ tiền trợ cấp mỗi năm từ những người nộp thuế. [13] 

Ở đây, chính sách phúc lợi và sự tham lam của con người trở thành cái vòng luẩn quẩn. Mặc dù ý định của những người đề xuất và xây dựng chính sách phúc lợi là tốt, nhưng họ đã gián tiếp trợ giúp cho tà linh cộng sản đạt được mục đích của nó là làm xói mòn và hủy hoại con người.

Hơn 100 năm trước, Tocqueville đã nhận thấy rằng chế độ phúc lợi chỉ xác định được ngưỡng nghèo mà không phân biệt được đúng đối tượng cần trợ cấp (tức là không thể xác định người cần trợ cấp ấy là nghèo do không nỗ lực vươn lên hay do thực sự gặp bất hạnh), vì thế nó cũng không thể trợ giúp hiệu quả những người thực sự cần giúp đỡ. [14] 

Xét từ khía cạnh kinh tế, việc lạm dụng chính sách phúc lợi sẽ tạo thành gánh nặng tài chính cho nhà nước, mà đối với những trẻ em nghèo, chế độ phúc lợi mang đến những bi kịch còn lớn hơn. Nghiên cứu năm 2009 cho thấy 2/3 số trẻ em nghèo, khi đến 18 tuổi, đều trở thành những người thụ hưởng chương trình trợ cấp an sinh dành cho người trưởng thành khuyết tật, cũng có nghĩa là suốt đời họ sẽ không thể thoát khỏi cảnh đói nghèo. [15] 

Với chế độ phúc lợi, định nghĩa “tàn tật” không ngừng được mở rộng, các chính khách vì để lấy lòng cử tri mà không ngừng khuếch trương chế độ phúc lợi. Tuy nhiên, mặt trái của chế độ phúc lợi lại dẫn đến lạm dụng phúc lợi, dẫn đến suy thoái đạo đức xã hội và làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế, đây là sự cố ý an bài của tà linh. 

Phúc lợi xã hội có thể được xem là một biện pháp cứu trợ khẩn cấp, nhưng không nên sử dụng thường xuyên. Phúc lợi xã hội có thể trợ giúp đối với những người gặp tai nạn do nguyên nhân ngoài ý muốn (như tai nạn lao động, dịch bệnh, thiên tai v.v.), nhưng nó không thể giải quyết tận gốc vấn đề đói nghèo. Lấy ví dụ nước Mỹ, tính đến năm 2014, trong 50 năm từ khi tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson phát động “cuộc chiến chống đói nghèo”, nước Mỹ đã tiêu tốn 2,2 nghìn tỷ đô la Mỹ thu từ người nộp thuế để chi trả cho phúc lợi xã hội. [16] Nhưng số liệu của Cục Thống kê Mỹ cho thấy ngoại trừ hơn mười năm đầu tiên, tỷ lệ người nghèo ở Mỹ trong gần 40 năm qua cơ bản vẫn không đổi, nghĩa là tỷ lệ nghèo không hề giảm xuống nhờ các chương trình cứu trợ. [17] 

Nhà kinh tế học người Mỹ William Arthur Niskanen chỉ ra rằng chế độ phúc lợi là nguyên nhân của “văn hóa đói nghèo”, tạo thành cái vòng luẩn quẩn: đói nghèo, sống lệ thuộc vào trợ cấp chính phủ, có con ngoài dã thú, tội phạm bạo lực, thất nghiệp, nạo phá thai v.v.. Nghiên cứu thực tiễn của ông cho thấy, trong “chương trình trợ cấp những gia đình có trẻ em phụ thuộc” (AFDC), nếu số tiền hỗ trợ tăng thêm 1% sẽ thu hút thêm 3% số người nhận hỗ trợ, số người nghèo sẽ tăng 0.8%, tỷ lệ trẻ em trong gia đình mẹ đơn thân tăng 2,1%, tỷ lệ thất nghiệp tăng 0,5%, tình trạng nạo phá thai và tội phạm bạo lực cũng phổ biến hơn. [18] Nghiên cứu của Niskanen chứng tỏ rằng chính sách phúc lợi cao lại khiến con người ỷ lại vào phúc lợi mà mất đi tinh thần trách nhiệm. 

Hệ quả nghiêm trọng nhất của văn hóa đói nghèo là tan vỡ gia đình. Nhà kinh tế học Walter E. Williams khi tìm hiểu lịch sử và thực trạng vấn nạn đói nghèo của những người da đen ở Mỹ đã chỉ ra rằng: 85% trẻ em người da đen sinh ra trong những gia đình mẹ đơn thân, đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tỷ lệ nghèo cao trong cộng đồng người da đen. Mà chế độ phúc lợi cao lại chính là thủ phạm tiếp tay, cho phép các bà mẹ đơn thân không phải chịu trách nhiệm cho hành động của họ; ngược lại họ còn được nhận các khoản phụ cấp, trợ cấp nhà ở, phiếu thực phẩm và các khoản trợ cấp khác từ phúc lợi xã hội. Phúc lợi trở thành trợ thủ đắc lực làm tỷ lệ sinh con không kết hôn tăng cao, làm tăng số lượng người nghèo. [19] 

Mặc dù mức phúc lợi không ngừng tăng lên suốt mấy thập kỷ qua nhưng khoảng cách giàu nghèo ở Mỹ vẫn không ngừng mở rộng: thu nhập bình quân (đã điều chỉnh theo mức lạm phát) tăng trưởng chậm, tài sản thì chảy vào tầng lớp giàu có nhất, còn xuất hiện nghề “làm nghèo”. Càng như vậy thì các đảng phái cánh tả lại càng lấy việc giải quyết vấn đề “người nghèo” làm cái cớ để thúc đẩy mở rộng chính phủ, thu thuế cao, phúc lợi cao, từ đó khiến xã hội rơi vào cái vòng luẩn quẩn. 

(6) Phe cánh tả sử dụng chính sách phúc lợi để biến dân chúng thành kho phiếu bầu 

Các chính khách phe cánh tả thường đưa ra những lý do nghe có vẻ cao thượng như “cứu trợ người nghèo”, “công bằng xã hội” để cổ xúy chính sách phúc lợi cao, thu thuế cao, nhằm đánh bóng tên tuổi của họ. Kỳ thực, bản thân họ không phải là người ban phát phúc lợi, họ chẳng qua chỉ lấy tài sản của tầng lớp giàu có và trung lưu cấp cho người nghèo mà thôi. Tuy nhiên sau khi chính sách phúc lợi làm rối loạn mối quan hệ giữa người cho và người nhận, những người chủ trương và quy định ra chính sách phúc lợi này lại dẫn dắt những người nhận phúc lợi hướng sự cảm ơn và báo đáp đến chính họ, bằng cách bỏ phiếu bầu cho họ. Lợi dụng chính sách phúc lợi cao để biến quần chúng thành kho phiếu bầu cho mình, đây là hiện tượng phổ biến ở Mỹ và châu Âu.

1.2 Các quốc gia phương Tây tích cực can thiệp vào lĩnh vực kinh tế

(1) Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế

Nhìn vào thực trạng hiện nay có thể thấy chính phủ ở xã hội tự do cũng đã can thiệp rất sâu vào lĩnh vực kinh tế. Một mặt là vì dưới ảnh hưởng của chính sách phúc lợi theo hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa, chính phủ ngày càng nắm quyền phân phối tài sản. Mặt khác, xã hội phương Tây sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1930 đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của học thuyết kinh tế Keynes khuyến khích nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ và tài khóa để điều hành nền kinh tế. 

Trong xã hội bình thường, nhà nước chỉ có vai trò hữu hạn trong nền kinh tế. Thông thường nhà nước chỉ can thiệp vào nền kinh tế khi xảy ra khủng hoảng, thiên tai hoặc trong một thời kỳ hay tình huống đặc thù nào đó. Nhưng hiện nay chủ nghĩa Keynes đã trở thành một loại trào lưu “thời thượng”, chính phủ các nước đua nhau theo đuổi chính sách can thiệp nhiều hơn vào nền kinh tế. 

Khi chính phủ can thiệp toàn diện vào kinh tế, nhất cử nhất động của nó đều có ảnh hưởng to lớn đến thị trường, trở thành “nhiệt kế” đo biến động của nền kinh tế. Rất nhiều chính sách và luật mới ra đời để trực tiếp quyết định sự thành bại của doanh nghiệp hoặc ngành kinh doanh nào đó, dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư cá nhân phải quan sát động thái của chính phủ để hoạt động. Từ vai trò thông thường là người đặt ra các quy định và người giám sát việc thực hiện quy định nay chính phủ trở thành người chỉ đạo và tham gia vào hoạt động kinh tế, từ vai trò trọng tài giờ đây trở thành người “vừa đá bóng vừa thổi còi”, chính phủ sử dụng nguyên tắc “bàn tay hữu hình” thay cho nguyên tắc “bàn tay vô hình”, trở thành người chỉ huy chính và người điều tiết dòng vốn, thị trường và tư bản, trở thành người thay thế cho chủ thể kinh tế tư nhân. 

Việc tích cực kiểm soát tài khóa cùng với chính sách phúc lợi cao khiến cho rất nhiều chính phủ phải gánh những món nợ lớn. Theo số liệu của Tổ chức Hợp tác Kinh tế Quốc tế (OECD), có đến gần một nửa số quốc gia có tỷ lệ nợ lên đến 100% GDP, thậm chí cao hơn; có quốc gia, tỷ lệ nợ thậm chí còn vượt quá 200% sản lượng kinh tế. [20] Thâm hụt tài khóa lớn đã trở thành hiểm họa tiềm ẩn cho nền kinh tế và xã hội tương lai của nhiều quốc gia. 

Nhà kinh tế học đoạt giải Nobel kinh tế Ronald Coase đã công bố nhiều luận án nghiên cứu về sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế và hệ quả của nó. Ông phát hiện gần như mọi sự can thiệp vào lĩnh vực kinh tế đều gây ra hệ quả tiêu cực. Ông cho rằng sự can thiệp quá lớn của chính phủ đã đạt đến cái mà các nhà kinh tế học gọi là “lợi nhuận biên giảm dần”. [21]

Mặc dù vậy, chính phủ nước nào cũng ngày càng tích cực can thiệp vào nền kinh tế, khiến nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào sự điều tiết của nhà nước. 

(2) Hệ quả và thực chất của việc chính phủ can thiệp vào nền kinh tế 

Chính phủ sử dụng quyền lực để can thiệp vào nền kinh tế ít nhất đã gây hệ quả ở hai phương diện sau: 

Thứ nhất, quyền lực của nhà nước ngày càng mở rộng về vai trò và quy mô. Quan chức chính phủ ngày càng tự cho quyền can thiệp vào nền kinh tế, để chính phủ vào vai đấng cứu thế, rồi lại càng tích cực can thiệp vào kinh tế hơn. Sau khi đối phó với khủng hoảng, cho dù khủng hoảng không còn nhưng chính phủ vẫn không nơi lỏng sự can thiệp của mình. 

Thứ hai, con người sẽ ngày càng ỷ lại chính phủ. Khi người ta gặp khó khăn hoặc không đạt được lợi ích như kỳ vọng trên thị trường tự do cạnh tranh, họ sẽ yêu cầu chính phủ can thiệp nhiều hơn để thỏa mãn nhu cầu của bản thân họ. 

Điều này tạo thành cái vòng luẩn quẩn, khiến quyền lực của chính phủ càng ngày càng lớn, không gian cho doanh nghiệp tư nhân và thị trường tự do càng ngày càng thu hẹp. Sản xuất sẽ mang tính phụ thuộc và những người lợi dụng các chính khách để trục lợi sẽ yêu cầu chính phủ phải phân phối tài sản nhiều hơn, thậm chí đặt ra các quy định pháp luật để cưỡng chế mọi người chấp hành. 

Ở phương Tây, một trào lưu chính trị mạnh mẽ đang khiến xã hội nghiêng sang phía cánh tả. Một số chính trị gia vốn thuộc phe cánh tả là tàn dư của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, một số chính trị gia vốn không thuộc phe cánh tả nhưng bị phe cánh tả cưỡng ép gia nhập, cũng trở thành đồng minh của phe cánh tả. Các thế lực này đã hợp sức, thúc ép chính phủ sử dụng các biện pháp can thiệp vào kinh tế, can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân, làm suy yếu hoạt động kinh tế bình thường của nhân loại. Rất nhiều phong trào xã hội nhìn bề ngoài giống như hành vi tự phát của người dân, nhưng kỳ thực đều chịu sự thao túng của tà linh cộng sản đằng sau.

Mọi người có thể thấy rằng chính phủ các nước phương Tây đã ngày càng lợi dụng danh nghĩa bình đẳng và các lý do chính trị khác, sử dụng quyền lực nhà nước để can thiệp vào thị trường, thậm chí dùng pháp luật để cố định việc can thiệp. Không nghi ngờ gì, điều này đã tước đoạt ý chí tự do của con người vốn là chủ thể của nền kinh tế thị trường, áp đặt ý chí của nhà nước cho thị trường. Thực tế đây là quá trình liên tục hình thành sự tập trung quyền lực của nhà nước đối với nền kinh tế, biến nền kinh tế thị trường thành nền kinh tế theo yêu cầu, khiến thị trường phụ thuộc vào quyền lực. Về lâu dài, quyền lực chính phủ công sẽ khống chế mọi mặt của nền kinh tế và đời sống của người dân, dùng thủ đoạn kinh tế để xây dựng chính trị tập quyền, nô dịch công dân và toàn xã hội.

Mỗi chính sách kinh tế nhìn bề ngoài có vẻ bình thường, nhưng trong quá trình lâu dài dần dần đi đến cực đoan, cứ như vậy tà linh cộng sản đang từng bước dẫn dắt nhân loại hướng đến chủ nghĩa cộng sản. 

1.3 Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ dẫn đến chủ nghĩa độc tài cộng sản

Chính sách thu thuế cao, phúc lợi cao, sự can thiệp sâu của nhà nước là biểu hiện của chủ nghĩa xã hội trong chế độ chủ nghĩa tư bản ở phương Tây. Nó mang cùng nguyên tắc cốt lõi của nền kinh tế kế hoạch vì đều lấy danh nghĩa và quyền lực của chính phủ để thao túng kinh tế. Nó coi chính phủ là đấng toàn năng, coi chính phủ như Thượng đế.

Điểm khác biệt là hiện nay, sự can thiệp của chính phủ ở phương Tây còn chịu ước chế bởi lực lượng tự do trong dân chúng, thêm vào đó là chế độ chủ nghĩa tư bản, cho nên nó không có biểu hiện cực đoan như nền kinh tế kế hoạch ở các quốc gia cộng sản. 

Nhà kinh tế, triết gia lỗi lạc người Úc Friedrich Hayek đã từng cảnh báo, bất cứ việc hoạch định và tái phân phối tài sản nào do nhà nước thao túng đều sẽ can thiệp vào thị trường, và tất nhiên cũng đều dẫn đến chủ nghĩa cực quyền, cho dù thể chế chính trị ban đầu là dân chủ hay gì đi nữa. Hayek cho rằng chủ nghĩa xã hội ở châu Âu và Bắc Mỹ hiện nay, tuy có điểm khác biệt với chế độ công hữu và nền kinh tế kế hoạch trước kia, nhưng đều cho kết quả như nhau: con người sẽ mất đi sự tự do và kế sinh nhai, chỉ có điều sẽ chậm hơn, gián tiếp hơn mà thôi. [22]

Phần trước của cuốn sách này đã chỉ ra rằng Marx, Engels, Lenin đều coi chủ nghĩa xã hội là giai đoạn tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. Giống như một đoàn tàu, điểm dừng ở trạm trung chuyển sẽ không ảnh hưởng đến điểm đến cuối cùng của nó. Nhân tố đằng sau thúc đẩy một quốc gia hướng đến chủ nghĩa xã hội chính là tà linh cộng sản, nó nhất định sẽ liên tục tiến về phía trước. Xã hội nhân loại về phương diện kinh tế và các phương diện khác, một khi quay lưng lại với truyền thống và tiếp thu những “giá trị quan” của tà linh cộng sản, bất kể tốc độ thế nào, chỉ cần phương hướng không thay đổi thì sớm muộn cũng sẽ đi đến điểm cuối của con đường. 

Điểm cuối của con đường khi đã rời xa truyền thống này không phải thiên đường nhân gian mà là hủy diệt nhân loại. Thực ra, ma quỷ không hề quan tâm đến việc “thiên đường” có thành hiện thực hay không, vì đó chỉ là lời dối trá để lừa mị con người; chỉ cần có thể hủy diệt nhân loại thì ma quỷ đã đạt được mục đích của nó rồi. 

2. Mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa quái thai của Đảng Cộng sản Trung Quốc

Sau khi trải qua nghèo đói và thống khổ do chế độ công hữu và nền kinh tế kế hoạch gây ra, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đành phải thực hiện cái gọi là “cải cách, mở cửa”, cũng đưa vào những yếu tố của “thị trường tự do”. Rất nhiều người tưởng rằng Trung Cộng đang thực hiện theo chủ nghĩa tư bản, kỳ thực không phải. 

2.1 ĐCSTQ không hề buông lỏng sự khống chế đối với nền kinh tế

Trung Cộng bất đắc dĩ đành phải giải phóng một số mặt trong lĩnh vực kinh tế, để một bộ phận kinh tế bước vào kinh tế thị trường và cho phép duy trì một bộ phận kinh tế tư nhân nhất định, nhưng điều này không có nghĩa là cộng sản đã buông lỏng sự khống chế của nó. Ngược lại, cải cách kinh tế chỉ là thủ đoạn mà tà linh lợi dụng để duy trì sự tồn tại của bản thân nó và lừa mị thế giới mà thôi. 

Mô hình kinh tế Trung Cộng hoàn toàn là một thứ quái thai, kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc gia và kinh tế thị trường. Trên bề mặt, mặc dù có một bộ phận là doanh nghiệp tư nhân, nhưng Trung Cộng chưa từng thừa nhận quyền tư hữu cơ bản nào của người dân. Tất cả tài nguyên, bao gồm cả đất đai cơ bản vẫn thuộc sở hữu nhà nước, thuộc nền kinh tế công hữu. Đồng thời, Trung Cộng lợi dụng quyền lực nhà nước để khống chế toàn bộ cơ chế vận hành của nền kinh tế. Nó vẫn duy trì việc hoạch định trên toàn quốc, vốn thuộc nền kinh tế tập quyền.

Thị trường chỉ là thủ đoạn mà nhà nước dùng để thúc đẩy sản xuất; nó không có tính độc lập thực sự, cũng không có cơ chế phù hợp với thị trường, không minh bạch về pháp lý và quyền sở hữu, tỷ giá không được tự do biến động, tài sản cũng không được tự do ra vào, doanh nghiệp nước ngoài không được tự do hoạt động. Để khuyến khích xuất khẩu, ĐCSTQ đã đưa ra chính sách trợ giá và hoàn thuế và giảm thuế xuất khẩu cho doanh nghiệp, với mục đích dùng giá thấp để đánh bại đối thủ cạnh tranh, gây nhiễu loạn hoạt động thương mại bình thường của thế giới.

Ở Trung Quốc, mọi hoạt động kinh tế phải phục vụ nhu cầu chính trị, hoạt động kinh tế và các tài nguyên kinh tế của doanh nghiệp và cá nhân đều phải phụ thuộc vào nhà nước, và có thể bị chiếm đoạt bất cứ lúc nào vì lý do chính trị. Chính vì thấy được những nguyên nhân này nên lâu nay, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vẫn luôn không thừa nhận Trung Quốc có nền kinh tế thị trường.

Nhiều chính phủ phương Tây từng ngây thơ cho rằng phát triển kinh tế sẽ mang lại tự do dân chủ về mặt chính trị cho Trung Quốc. Nhưng không may là Trung Cộng chỉ dùng dưỡng chất của chủ nghĩa tư bản để nuôi lớn cơ thể chủ nghĩa xã hội, nó liều chết bám chặt lấy bóng ma của chủ nghĩa cộng sản.

Trung Cộng càng có nhiều tiền hơn thì lại càng đàn áp dân chúng tàn khốc và tinh vi hơn. Bắt đầu từ tháng 7 năm 1999, Trung Cộng phát động cuộc bức hại nhắm vào 100 triệu người tu luyện Pháp Luân Công. Cuộc chiến tranh không khói súng chống lại giá trị phổ quát Chân-Thiện-Nhẫn này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Từ năm 2009, Trung Cộng đã tiêu tốn hơn 500 tỷ nhân dân tệ (75 tỷ USD) làm cái gọi là “chi phí giữ vững sự ổn định” để trấn áp dân chúng. 

2.2 Sự thực đằng sau sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc 

Mức tăng trưởng GDP nhanh chóng của Trung Quốc gần 40 năm qua khiến rất nhiều người tin rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có nhiều “tính ưu việt”, khiến rất nhiều người phương Tây, bao gồm cả những người nổi tiếng trong giới chính trị, học thuật và các chuyên gia phải thay đổi cách nhìn, phải khen ngợi hiệu quả của thể chế cực quyền. Thực ra, mô hình kinh tế của Trung Cộng là không thể sao chép được nguyên nhân phát triển kinh tế của nó một mặt đã chứng minh vấn đề nội tại của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, mặt khác nó đã lộ rõ nguy cơ đáng sợ gây ra bởi một nền kinh tế quyền lực vô đạo đức.

Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc 40 năm qua có liên quan mật thiết đến các phương diện, nhân tố sau: 

Thứ nhất, sự nới lỏng chế độ kinh tế công hữu, bãi bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở trung ương, khôi phục kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân khiến cho nền kinh tế Trung Quốc có động lực phát triển mạnh mẽ. Người Trung Quốc cần cù, thông minh nhưng bị ĐCSTQ kìm kẹp qua hàng thập kỷ, khiến họ trở nên sợ đói nghèo, một khi được giải phóng thì mong muốn kiếm tiền tự nhiên sẽ tạo thành sức mạnh vô cùng lớn. 

Thứ hai, vốn đầu tư và kỹ thuật từ phương Tây ào ạt chảy vào Trung Quốc. Phần lớn đất đai, lao động và thị trường do chế độ công hữu ban đầu của Trung Quốc tích lũy có thể sử dụng được nhưng chưa được khai phát tiềm năng, giống như mỏ vàng chưa được khai thác. Kỹ thuật được ví như củi, còn vốn đầu tư được ví như dầu và lửa, hai thứ này kết hợp lại tạo thành ngọn lửa lớn thổi bùng nền kinh tế Trung Quốc. Nếu không phải vì sự thống trị cực quyền của Trung Cộng thì ngọn lửa này lẽ ra phải cháy sớm hơn, thịnh vượng hơn, lâu dài và an toàn hơn; nền kinh tế Trung Quốc lẽ ra đã phát triển sớm hơn rồi. 

Dòng tiền từ các quốc gia phương Tây chảy vào Trung Quốc là cực lớn, bên ngoài khó mà tưởng tượng được. Theo thống kê, đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Trung Quốc từ năm 2000 đến năm 2016 đã lên đến gần 800 tỷ USD. [23] Từ năm 1979 đến năm 2015, tổng giá trị vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Trung Quốc đã lên đến 1.642,3 tỷ USD. [24]

Thứ ba, các quốc gia phương Tây còn dành cho Trung Cộng ưu đãi đặc biệt về thương mại và thị trường rộng lớn. Tháng 5/2000, Mỹ quyết định bình thường hóa quan hệ thương mại vĩnh viễn với Trung Quốc. Ngày 11/12/2001, Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tham gia thị trường quốc tế.

Thứ tư, nền kinh tế của Trung Cộng phát triển trên cơ sở phi đạo đức: bóc lột công nhân, nông dân trong các công xưởng với điều kiện lao động tồi tệ, mức lương thấp; cưỡng chế giải phóng mặt bằng bằng bạo lực… tất cả chỉ để mở đường cho kinh tế phát triển, bất chấp ô nhiễm môi trường và những tác hại lâu dài, trong thời gian ngắn chiếm hết ưu thế về giá thành và tốc độ nhằm khai thác cạn kiệt đất đai, con người và các nguồn lực.

Trung Cộng lợi dụng vốn, kỹ thuật và thị trường của phương Tây, những điều khoản thương mại có lợi với phương Tây, lao động giá rẻ trong nước và chi phí sản xuất thấp để tích lũy dữ trữ ngoại hối khổng lồ. Thâm hụt thương mại Mỹ-Trung từ hơn 80 tỷ USD năm 2000 đã tăng lên đến hơn 375 tỷ USD năm 2017. 

Cuối cùng, Trung Cộng lại là kẻ lật đổ các quy tắc thương mại quốc tế để khai thác tối đa lợi thế, bất luận có hợp pháp hay không. Nó còn dùng chiến lược quốc gia để đánh cắp sở hữu trí tuệ, dùng thủ đoạn đi tắt đón đầu để đánh cắp khoa học kỹ thuật của các quốc gia khác. Đây là “vụ trộm cắp lớn nhất trong lịch sử của mọi thời đại”, cũng phá hoại trật tự kinh tế bình thường của chủ nghĩa tư bản. 

Theo báo cáo công bố năm 2017 của Ủy ban Bảo vệ Quyền Sở hữu Trí tuệ Mỹ, Trung Quốc mỗi năm gây thiệt hại cho Mỹ từ 225 – 600 tỷ USD thông qua việc làm hàng giả, phần mềm lậu và ăn cắp bí mật thương mại của Mỹ, đó là chưa tính đến những vi phạm quyền sáng chế phổ biến ở Trung Quốc. Báo cáo còn nêu, trong ba năm qua, Mỹ đã thiệt hại 1.200 tỷ USD do bị đánh cắp sở hữu trí tuệ, phần lớn do Trung Quốc gây ra. [25] [26] Báo cáo tháng 11/2015 của Văn phòng Giám đốc Cục Tình báo Quốc gia Mỹ cho thấy 90% các vụ tấn công của các hacker máy tính đối với các doanh nghiệp Mỹ là từ Trung Cộng, khiến Mỹ thiệt hại ước tính 400 tỷ USD mỗi năm. [27] 

Có thể thấy rằng nguyên nhân tăng trưởng kinh tế Trung Quốc là do sự nới lỏng hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, cộng thêm sự đầu tư và chuyển dịch tài sản từ các quốc gia phát triển phương Tây và những hành vi kinh doanh vô đạo đức của Trung Cộng. Không thể nói đây là tính ưu việt của chế độ chủ nghĩa xã hội, càng không có nghĩa là Trung Cộng đang đi trên con đường bình thường của chủ nghĩa tư bản. Các quốc gia phương Tây có lúc gọi mô hình kinh tế cực quyền cộng sản vô đạo đức này của Trung Cộng là “chủ nghĩa tư bản quốc gia”, thực ra đó là để tô vẽ cho Trung Cộng. Dưới chế độ cực quyền cộng sản, kinh tế chỉ là tỳ nữ của chính trị, biểu tượng kinh tế thị trường chỉ là kỹ xảo để nó lừa mị thế giới mà thôi. 

Mô hình kinh tế của Trung Cộng gây cho thế giới một ảo tưởng rằng sử dụng lực lượng nhà nước có thể nhanh chóng phát triển kinh tế, sử dụng các thủ đoạn vô đạo đức có thể thu được thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế, vì thế mà khiến cho các quốc gia khác tích cực can thiệp vào kinh tế hơn. Nếu những quốc gia này coi mô hình kinh tế Trung Cộng là mô hình thành công trong khi lờ đi những thảm họa nhân quyền và sự suy đồi đạo đức thì họ đã mắc sai lầm tệ hại, không khác gì uống rượu độc để giải khát.

2.3 Hậu quả của mô hình kinh tế Trung Quốc

Mô hình phát triển kinh tế của ĐCSTQ đã đặt xã hội vào tình trạng đạo đức tụt dốc không phanh, vừa khớp với mục đích muốn hủy diệt nhân loại của tà linh cộng sản. Trung Cộng phát triển kinh tế song song với việc làm suy thoái đạo đức con người, khiến cho con người dương dương tự đắc, mải mê hưởng thụ lợi ích kinh tế mà vô thức đi đến bờ hủy diệt. 

Ngày nay, ở Trung Quốc, vấn nạn hàng giả, thực phẩm độc hại tràn ngập; hiện tượng khiêu dâm, ma túy, cờ bạc, xã hội đen mặc sức hoành hành; tham nhũng, hủ bại, mại dâm đã trở thành thành quả đáng tự hào; thiếu chữ tín, khoảng cách giàu nghèo, tội phạm cấu kết với quan chức, xung đột xã hội, pháp luật không công bằng, thấy chết không cứu đã trở thành chuyện thường tình. Dưới chế độ kinh tế cực quyền, tham nhũng lên đến cực điểm, mua quan bán chức, công tư lẫn lộn. Tình trạng tham ô của quan chức Trung Cộng đã vượt quá sức tưởng tượng của con người, quan nhỏ tham ô lớn chỗ nào cũng có, quan lớn còn tham ô lớn hơn. Hàng tỷ, hàng chục tỷ tài sản quốc hữu bị biển thủ, không một chính phủ quốc gia nào trên thế giới lại tham nhũng nhiều và suy đồi đạo đức như Trung Cộng. 

Tháng 10/2011, sự kiện cô bé hai tuổi Vương Duyệt (tên thân mật: Tiểu Duyệt Duyệt) ở Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông đã làm chấn động toàn Trung Quốc và khắp thế giới. Cô bé hai tuổi bị một chiếc xe đâm ngã, người tài xế không những không cứu cô bé mà còn tiếp tục lái xe nghiến lên người em rồi bỏ đi, chiếc xe đi đằng sau tiếp tục nghiến lên người em, có khoảng 18 người đi đường đi qua nơi xảy ra tai nạn nhưng không một ai ra tay giúp đỡ. Cô bé cuối cùng đã tử vong vì không được cứu chữa kịp thời. Truyền thông quốc tế kinh ngạc thốt lên: “Phải chăng Trung Quốc đã mất đi linh hồn rồi?” Nếu như gặp phải côn đồ, người ta có chút do dự tới cứu thì còn hiểu được. Còn ở đây, bé Duyệt Duyệt không thể gây ra mối nguy nào với bất kỳ ai khi đang nằm dưới bánh xe của người tài xế vô cảm kia, mà người qua lại thấy chết không cứu. Đủ thấy xã hội này đã phá vỡ giới hạn đạo đức thấp nhất. 

Phát triển kinh tế bất chấp đạo đức thì chỉ gây hỗn loạn, không bền vững, và là thảm họa. Nền kinh tế vô nhân đạo này đã gây ra khủng hoảng môi trường, gia tăng xung đột xã hội. Một xã hội không có thành tín sẽ làm gia tăng mạnh mẽ chi phí kinh tế, khi chi phí đạo đức lớn đến một mức độ nhất định sẽ kéo kinh tế đi xuống. Cạnh tranh trên trường quốc tế mà không có đạo đức cũng không thể lâu dài, kinh tế Trung Quốc đang bắt đầu trả giá cho điều này và đang bắt đầu bước vào thời kỳ suy giảm. Trung Quốc tự gọi mình là một quốc gia hùng mạnh, nhưng sức mạnh của nó chỉ là ảo ảnh. Biểu hiện phồn vinh do tăng trưởng kinh tế nhanh chỉ giống như xây lâu đài trên cát, bất cứ lúc nào cũng có thể sụp đổ khi đồng thời xảy ra tình trạng suy thoái đạo đức và xung đột xã hội về mọi mặt.

Nếu không thoát ra khỏi cái thòng lọng này của ma quỷ, thì với mô hình kinh tế hiện nay, Trung Quốc sẽ không thể có một tương lai tốt đẹp. Bởi vì tà linh cộng sản vốn không quan tâm, cũng không có ý định giúp kinh tế Trung Quốc phát triển bền vững – mục đích thực sự của nó chính là hủy diệt Trung Quốc.

3. Chủ nghĩa xã hội đưa các quốc gia đang phát triển đi vào ngõ cụt 

3.1 Bóng ma chủ nghĩa xã hội vẫn đang ám các quốc gia cộng sản Đông Âu cũ

Trên thế giới hiện nay, các quốc gia phát triển phương Tây đang tiến hành chủ nghĩa xã hội trá hình, ĐCSTQ đã áp đặt mô hình kinh tế quái thai của chủ nghĩa xã hội độc tài, còn các quốc gia cộng sản cũ ở Đông Âu vì không triệt để xóa bỏ tội ác của chế độ cộng sản ở khối Xô-Viết cũ, nên bóng ma cộng sản vẫn ám khu vực này, trong tâm mọi người vẫn còn chứa đựng chủ nghĩa cộng sản.

Điều này phản ánh ở nhiều phương diện của nền kinh tế, chính trị Đông Âu. Ví dụ Nga và Belarus vẫn giữ lại các doanh nghiệp nhà nước lớn, chế độ phúc lợi cao, và duy trì chính sách can thiệp sâu vào nền kinh tế. Trong giai đoạn chuyển đổi chế độ, các quốc gia Đông Âu rơi vào khủng hoảng do mức tăng trưởng kinh tế chậm và tỷ lệ thất nghiệp cao, mang lại cơ hội cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đội mồ sống dậy với diện mạo mới. Bóng ma cộng sản chưa bị triệt tiêu. Các chính đảng cánh tả phát triển mạnh mẽ, làm trỗi dậy những cảm xúc hoài niệm về chủ nghĩa cộng sản trước đây ở các quốc gia cộng sản Đông Âu cũ. [28]

3.2 Sự thất bại của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở các nước đang phát triển

Vào những năm 1960, ở các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, và châu Mỹ La-tinh, nhiều quốc gia mới độc lập ở châu Phi đã tuyên bố đi theo chủ nghĩa xã hội, rồi để lại một đống hỗn loạn. Ví dụ gần đây nhất là Venezuela và Zimbabwe. 

Venezuela từng là quốc gia giàu có nhất châu Mỹ La-tinh. Từ khi chủ nghĩa xã hội làm sụp đổ nền kinh tế nước này, Venezuela đã rơi vào nghèo khó, nạn đói hoành hành, tội phạm tràn lan, bầu không khí tuyệt vọng bao trùm khắp đất nước. Zimbabwe cũng từng là quốc gia giàu có nhất châu Phi. Ngày nay quốc gia này đã rơi vào thảm họa về mọi mặt do lạm phát đã tăng đến mức không thể tưởng tượng được. 

(1) Venezuela: Chủ nghĩa xã hội khiến một quốc gia giàu có rơi vào vực thẳm phá sản

Venezuela có nguồn tài nguyên dầu mỏ phong phú. Vào những năm 1970, Venezuela là quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất ở châu Mỹ Latinh, có mức bất bình đẳng thu nhập thấp nhất, và GDP bình quân đầu người cao nhất trong khu vực. [29] Nền kinh tế Venezuela lúc đó khá tự do, cùng với chính sách di dân đã hấp dẫn công nhân lành nghề từ Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, cộng thêm chính sách bảo hộ quyền sở hữu, khiến cho quốc gia này đạt mức tăng trưởng kinh tế nhanh trong giai đoạn 1940-1970. [30] 

Năm 1999, tân tổng thống Venezuela, sau khi nhậm chức, đã tiến hành chủ nghĩa xã hội, thực hiện quốc hữu hoá, cuối cùng đẩy nền kinh tế Venezuela đến chỗ sụp đổ. Vị tổng thống này từng công khai tuyên bố rằng cần tiến hành “chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21”. [31] 

Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính phủ Venezuela đã trưng thu hay quốc hữu hóa rất nhiều doanh nhiệp tư nhân trong các lĩnh vực dầu khí, nông nghiệp, tài chính, công nghiệp nặng, thép, viễn thông, năng lượng, giao thông vận tải, và du lịch. Quá trình này càng được đẩy mạnh sau khi vị tổng thống này tái đắc cử vào năm 2007. Từ năm 2007-2012, chính phủ nước này đã trưng thu 1.147 doanh nghiệp tư nhân, gây ra những hệ quả vô cùng tai hại.

Những doanh nghiệp từng đạt năng suất cao một thời nay bị đóng cửa, thay vào đó là các xí nghiệp quốc doanh năng suất thấp, các nhà đầu tư cũng sợ hãi bỏ chạy. Khi sản xuất lao dốc, Venezuela ngày càng phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu. Thêm vào đó là một loạt biện pháp can thiệp của chính phủ như khống chế tỷ giá hối đoái và giá cả, cuối cùng khi giá dầu đi xuống thì khủng hoảng xảy ra là điều không thể tránh khỏi. 

Có người cho rằng nguyên nhân của tấn bi kịch này là do khủng hoảng dầu mỏ, nhưng sự việc lại không đơn giản như vậy. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, có bảy quốc gia khác còn phụ thuộc vào dầu mỏ nhiều hơn Venezuela, nhưng trong giai đoạn từ 2013-2017, bảy quốc gia này đều đạt tăng trưởng kinh tế. [32] 

Căn nguyên của vấn đề chính là chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, chính sách kinh tế của Venezuela đi theo 10 yêu cầu mà Marx đã đề xuất cho những quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. [33] Tình cảnh bi thảm của Venezuela là tai họa kinh tế mà tà linh cộng sản gây ra. 

(2) Zimbabwe: Từ “vựa bánh mì của châu Phi” đến nạn đói tồi tệ 

Sau khi chính thức giành độc lập vào năm 1980, Zimbabwe đã lựa chọn hướng xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa theo lập trường của chủ nghĩa Marx-Lenin. Tổng thống đầu tiên của quốc gia này khi còn trẻ cũng là một tín đồ của chủ nghĩa Marx. Đội quân du kích của ông này chịu ảnh hưởng của tư tưởng Mao Trạch Đông và được ĐCSTQ viện trợ vô điều kiện, vì thế quốc gia này có quan hệ mật thiết với Trung Cộng. Không giống với các quốc gia châu Phi khác đi theo chủ nghĩa xã hội, Zimbabwe chưa lập tức tiến hành quốc hữu hóa. 

Sau khi bắt đầu cải cách ruộng đất năm 2000, nền kinh tế Zimbabwe bắt đầu rơi vào tình cảnh khốn cùng. Theo chính sách cải cách đất đai của Zimbabwe, nông trường của người da trắng bị phân phối lại cho những người da đen bản địa không có đất đai và những người có quan hệ chính trị tốt. Kế hoạch này đã khiến cho sản xuất của Zimbabwe sụt giảm mạnh. Ngân hàng Trung ương Zimbabwe phải in thêm tiền để giải quyết khủng hoảng, châm ngòi cho siêu lạm phát bắt đầu. 

Số liệu của Ngân hàng Trung ương Zimbabwe cho thấy tháng 6/2008, mức lạm phát hàng năm của quốc gia này đã là 231 triệu %. Đến giữa tháng 11/2008, con số này đã đạt mức cao nhất, còn chút nữa là vượt quá mức 80 tỷ %, chính phủ thậm chí còn bỏ qua việc công bố số liệu thống kê hàng tháng. Một năm sau, tỷ giá chuyển đổi đồng Đô la Mỹ sang đồng tiền Zimbabwe đạt đến mức 1 USD đổi được 35.000 tỷ đồng Zimbabwe, Zimbabwe buộc phải bỏ và in lại tiền của mình. [34]

Năm 2008, Zimbabwe lại xảy ra nạn đói lớn, khiến rất nhiều người chết. Quốc gia này có 16 triệu dân mà có đến 3,5 triệu người bị thiếu lương thực. Ngày nay, tình trạng suy dinh dưỡng ở quốc gia này vẫn tồn tại phổ biến.

Tà linh cộng sản đã hoành hành trên thế giới, con người ở các quốc gia khác nhau đều có thể nhìn thấy nguy cơ trước mắt và tiềm tàng mà nó mang lại. Những vấn đề mà nó mang tới cho các nước phát triển phương Tây đang lộ dần ra. Nó cũng đã gây ra những hiện thực đau thương cho các nước đang phát triển. Mọi người phải nhớ kỹ: Ma quỷ có thể mang lại cho con người sự đầy đủ và thoải mái nhất thời về mặt kinh tế, nhưng bản tính của nó sẽ không thay đổi; nó nhất định muốn đẩy con người vào tình trạng đạo đức bại hoại rồi kéo họ vào vực thẳm hủy diệt sinh mệnh.

Chương 8 (Phần 2) Chương 9 (Phần 2)

Tài liệu tham khảo

[1] Karl Marx and Friedrich Engels, “Manifesto of the Communist Party,” Marx/Engels Selected Works, Vol. One (Moscow: Progress Publishers, 1969), 98-137.

[2] Max Galka, “The History of U.S. Government Spending, Revenue, and Debt (1790-2015),” Metrocosm, February 16, 2016, http://metrocosm.com/history-of-us-taxes/.

[3] “OECD Tax Rates on Labour Income Continued Decreasing Slowly in 2016,” OCED Report, http://www.oecd.org/newsroom/oecd-tax-rates-on-labour-income-continued-decreasing-slowly-in-2016.htm.

[4] Kenneth Scheve and David Stasavage, Taxing the Rich: A History of Fiscal Fairness in the United States and Europe (Kindle Locations 930-931) (Princeton: Princeton University Press, Kindle Edition).

[5] Rachel Sheffield and Robert Rector, “The War on Poverty after 50 Years,” Heritage Foundation Report, September 15, 2014, https://www.heritage.org/poverty-and-inequality/report/the-war-poverty-after-50-years.

[6] Như trên

[7] Nima Sanandaji, Scandinavian Unexceptionalism: Culture, Markets, and the Failure of Third-Way Socialism (London: Institute for Economic Affairs, 2015), 132.

[8] Alexis de Tocqueville, Memoir on Pauperism, trans. Seymour Drescher (Lancing, West Sussex, UK: Hartington Fine Arts Ltd, 1997).

[9] Như trên

[10] “A National Sport No More,” The Economist, November 3rd, 2012, https://www.economist.com/europe/2012/11/03/a-national-sport-no-more.

[11] Martin Halla, Mario Lackner, and Friedrich G. Schneider, “An Empirical Analysis of the Dynamics of the Welfare State: The Case of Benefit Morale,” Kyklos, 63:1 (2010), 55-74.

[12] Nicholas Kristof, “Profiting from a Child’s Illiteracy,” New York Times, December 7, 2012, https://www.nytimes.com/2012/12/09/opinion/sunday/kristof-profiting-from-a-childs-illiteracy.html.

[13] Như trên

[14]Alexis de Tocqueville, Memoir on Pauperism, trans. Seymour Drescher (Lancing, West Sussex, UK: Hartington Fine Arts Ltd, 1997).

[15] Nicholas Kristof, “Profiting from a Child’s Illiteracy,” New York Times, December 7, 2012, https://www.nytimes.com/2012/12/09/opinion/sunday/kristof-profiting-from-a-childs-illiteracy.html.

[16] Robert Rector, “The War on Poverty: 50 Years of Failure,” Heritage Foundation Report, September 23, 2014, https://www.heritage.org/marriage-and-family/commentary/the-war-poverty-50-years-failure.

[17] U.S. Census Bureau, “Annual Social and Economic Supplements,” Current Population Survey, 1960 to 2016.

[18] Niskanen, A., “Welfare and the Culture of Poverty,” The Cato Journal, 16:1(1996).

[19] Walter E. Williams, “The True Black Tragedy: Illegitimacy Rate of Nearly 75%,” cnsnews.com, May 19, 2015, https://www.cnsnews.com/commentary/walter-e-williams/true-black-tragedy-illegitimacy-rate-nearly-75.

[20] “OECD Data,” https://data.oecd.org/gga/general-government-debt.htm.

[21] Thomas Winslow Hazlett, “Looking for Results: An Interview with Ronald Coase,” Reason, (January 1997), https://reason.com/archives/1997/01/01/looking-for-results.

[22] F. A. Hayek, The Road to Serfdom (London: Routledge Press, 1944).

[23] “Direct Investment Position of the United States in China from 2000 to 2016” , Statistica.com, https://www.statista.com/statistics/188629/united-states-direct-investments-in-china-since-2000/.

[24]“Report on Foreign Investments in China, 2016,” A Chronicle of Direct Foreign Investments in China, The Ministry of Commerce of China [〈中国外商投资报告 2016〉, 《中国外商直接投资历年概况》,中國商務部]

[25] Liz Peek, “Finally, a President Willing to Combat Chinese Theft,” The Hill, March 26, 2018, http://thehill.com/opinion/finance/380252-finally-a-president-willing-to-combat-chinese-theft.

[26] The Commission on the Theft of American Intellectual Property, Update to the IP Commission Report, 2017, http://www.ipcommission.org/report/IP_Commission_Report_Update_2017.pdf.

[27] Chris Strohm, “No Sign China Has Stopped Hacking U.S. Companies, Official Says,” Bloomberg News, November 18, 2015, https://www.bloomberg.com/news/articles/2015-11-18/no-sign-china-has-stopped-hacking-u-s-companies-official-says.

[28] Kurt Biray, “Communist Nostalgia in Eastern Europe: Longing for the Past,” November 10, 2015, https://www.opendemocracy.net/can-europe-make-it/kurt-biray/communist-nostalgia-in-eastern-europe-longing-for-past.

[29] John Polga-Hecimovich, “The Roots of Venezuela’s Failing State,” Origins, 10:9 (June 2017), http://origins.osu.edu/article/roots-venezuelas-failing-state.

[30] José Niño, “Venezuela Before Chavez: A Prelude to Socialist Failure,” Mises Wire, May 04, 2017, https://mises.org/wire/venezuela-chavez-prelude-socialist-failure.[31] John Bissett, “Hugo Chavez: Revolutionary Socialist or Leftwing Reformist?” Socialist Standard No. 1366 (June 2018) https://www.worldsocialism.org/spgb/hugo-chavez-revolutionary-socialist-or-leftwing-reformist.

[32] Julian Adorney, “Socialism Set Fire to Venezuela’s Oil Crisis,” Real Clear World, August 29, 2017, https://www.realclearworld.com/articles/2017/08/29/socialism_set_fire_to_venezuelas_oil_crisis_112520.html.

[33] José Niño, “John Oliver is Wrong About Venezuela – It’s a Socialist Country,” Mises Wire May 30, 2018, https://mises.org/wire/john-oliver-wrong-about-venezuela-%E2%80%94-its-socialist-country.

[34] “10 Numbers Tell You What Is Going On in Zimbabwe”, BBC Chinese edition (November 11, 2017), http://www.bbc.com/zhongwen/trad/world-42077093


Bản gốc: http://www.epochtimes.com/gb/18/6/5/n10457370.htm

中文正體